Trẻ
bị suy dinh dưỡng thường có tầm vóc thấp bé hơn trẻ bình thường, dễ mắc
bệnh, kém linh hoạt, kết quả học tập cũng bị ảnh hưởng do thiếu các vi
chất có liên quan đến sự phát triển của trí não như sắt và iốt.
Suy dinh dưỡng trẻ em là tình trạng mắc phải khi mức cung ứng các chất dinh dưỡng thiếu so với nhu cầu sinh lý của trẻ.
Nguyên nhân đa dạng
Những nguyên nhân thường gặp của suy dinh dưỡng là:
1. Cha mẹ thiếu kiến thức nuôi con:
trẻ không được bú sữa mẹ, cho ăn dặm không đúng cách, không biết cách
lựa chọn thực phẩm phù hợp với trẻ, cho trẻ ăn quá ít lần trong ngày,
kiêng khem quá đáng khi trẻ bệnh.
2. Trẻ biếng ăn. Có nhiều lý do như:
-
Thường xuyên mắc các bệnh lý nhiễm trùng. Khi bệnh trẻ thường biếng ăn,
những kháng sinh được dùng điều trị các bệnh nhiễm trùng vừa có tác
động diệt vi trùng gây bệnh, vừa diệt bớt các vi khuẩn thường trú có
lợi cho cơ thể tại đường ruột làm giảm quá trình lên men thức ăn, dẫn
đến biếng ăn và kém hấp thu.
- Chế biến thức ăn không hợp khẩu vị và lứa tuổi của trẻ.
- Cách chăm sóc trẻ không phù hợp (quá căng thẳng dẫn đến biếng ăn tâm lý).
3. Trẻ em sinh ra trong các gia đình nghèo, không có đủ thực phẩm để ăn.
4. Trẻ bị nhiễm ký sinh trùng như giun, sán,...
5. Một số nguyên nhân khác
ít gặp hơn: trẻ hoạt động quá nhiều, hoặc sống trong môi trường quá
nóng, quá lạnh, làm tiêu hao năng lượng nhiều; hoặc trẻ bị bệnh nặng có
nhu cầu các dưỡng chất cao mà không được cung cấp tăng cường.
Cách tính chiều cao và cân nặng
Dễ dàng nhất là dựa vào cân nặng, chiều cao của trẻ so với tháng tuổi:
- Trẻ suy dinh dưỡng về cân nặng khi số cân của trẻ ít hơn 20% so với chuẩn trung bình.
Ví
dụ: bé gái tên Hòa, 42 tháng tuổi, cân nặng 11kg. Dò bảng thấy cân nặng
trung bình của trẻ gái ở tháng tuổi đó là 15kg. 20% của 15kg là 3kg.
15kg - 3kg = 12kg. Kết luận: bé Hòa nặng 11kg là bị suy dinh dưỡng.
- Trẻ suy dinh dưỡng về chiều cao khi chiều cao của trẻ ít hơn 10% so với chuẩn trung bình.
Ví
dụ: bé trai tên An, 60 tháng tuổi, chiều cao 103cm. Dò bảng ở hàng 60
tháng tuổi thấy chiều cao trung bình của trẻ trai là 110cm. 10% của
110cm là 11cm. 110cm - 11cm = 99cm. Kết luận: bé An có chiều cao 103cm
là không bị suy dinh dưỡng về mặt chiều cao.
Cần can thiệp sớm
Ðối
với trẻ suy dinh dưỡng, việc hồi phục đòi hỏi một khoảng thời gian dài.
Riêng chiều cao có thể trẻ sẽ không trở về được chuẩn trung bình như
chúng ta mong muốn dù được điều trị hết sức tích cực. Vì vậy, việc can
thiệp sớm ngay từ khi trẻ có một trong những biểu hiện rối loạn về dinh
dưỡng là điều quan trọng. Các biểu hiện này bao gồm:
- Biếng ăn.
- Kém linh hoạt hoặc ưa quấy khóc.
- Chậm tăng cân hoặc đứng cân liên tục trong 2-3 tháng.
- Chậm tăng chiều cao hoặc không tăng chiều cao liên tục trong 2-3 tháng.
- Rối loạn giấc ngủ (ngủ trằn trọc, ngủ giấc ngắn, hoặc giật mình khóc thét khi đang ngủ,...).
- Rụng tóc vùng chẩm (chiếu liếm).
- Chậm mọc răng.
- Da xanh dần, cơ nhão dần.
- Chậm biết đi.
- Thường xuyên mắc các bệnh lý nhiễm trùng.
Ðể phát hiện sớm những biểu hiện này, cha mẹ cần:
- Theo dõi sát chế độ ăn của trẻ: xem trẻ có ăn hết suất và đủ bữa không.
- Quan sát da, cơ, răng, tóc của trẻ xem có những thay đổi như trên đã trình bày.
- Quan sát sự phát triển vận động của trẻ xem có bình thường (lật, ngồi, đứng chựng, đi... có đúng với lứa tuổi).
-
Thường xuyên đưa trẻ đến cơ quan y tế để cân, đo chiều cao mỗi 1-2
tháng, điều này giúp phát hiện nhanh chóng tình trạng chậm tăng cân,
chậm tăng chiều cao của trẻ.
- Xem trẻ có thường xuyên mắc các bệnh lý nhiễm trùng không.
Việc
điều trị đúng nguyên nhân và tích cực ngay từ đầu sẽ giúp trẻ hồi phục
nhanh, bắt kịp đà tăng trưởng với các trẻ cùng lứa tuổi.
Bảng cân nặng và chiều cao
trung bình của trẻ dưới 5 tuổi:
THÁNG TUỔI
|
CÂN NẶNG TRUNG BÌNH (Kg)
|
CHIỀU CAO TRUNG BÌNH (cm)
|
Trẻ trai
|
Trẻ gái
|
Trẻ trai
|
Trẻ gái
|
Mới sinh
|
3,3
|
3,2
|
49,9
|
49,1
|
1
|
4,5
|
4,2
|
54,7
|
53,7
|
2
|
5,6
|
5,1
|
58,4
|
57,1
|
3
|
6,4
|
5,8
|
61,4
|
59,8
|
4
|
7,0
|
6,4
|
63,9
|
62,1
|
5
|
7,5
|
6,9
|
65,9
|
64
|
6
|
7,9
|
7,3
|
67,6
|
65,7
|
7
|
8,3
|
7,6
|
69,2
|
67,3
|
8
|
8,6
|
7,9
|
70,6
|
68,7
|
9
|
8,9
|
8,2
|
72
|
70,1
|
10
|
9,2
|
8,5
|
73,3
|
71,5
|
11
|
9,4
|
8,7
|
74,5
|
72,8
|
12
|
9,6
|
8,9
|
75,7
|
74
|
18
|
10,9
|
10,2
|
82,3
|
80,7
|
24
|
12,2
|
11,5
|
87,8
|
86,4
|
30
|
13,3
|
12,7
|
91,9
|
90,7
|
36
|
14,3
|
13,9
|
96,1
|
95,1
|
42
|
15,3
|
15
|
99,9
|
99
|
48
|
16,3
|
16,1
|
103,3
|
102,7
|
54
|
17,3
|
17,2
|
106,7
|
106,2
|
60
|
18,3
|
18,2
|
110
|
109,4
|
(Nguồn: Who Child Growth Standards
- 2006)
BS. Nguyễn Thị Ngọc Hương (Trung tâm Dinh dưỡng, TP.HCM / Tuổi trẻ)
Chế độ ăn cho trẻ suy dinh dưỡng Có nhiều nguyên nhân gây suy dinh dưỡng cho trẻ. Nhưng dù nguyên nhân nào thì hậu quả cũng là trẻ bị thiếu năng lượng và chất dinh dưỡng làm trẻ không tăng cân, chiều cao và giảm trí thông minh. Do đó, chế độ ăn của trẻ suy dinh dưỡng có nguyên tắc chung là làm tăng năng lượng và tăng chất dinh dưỡng.
Tăng dầu mỡ: Vì dầu mỡ cung cấp năng lượng gấp đôi chất bột và chất đạm. Mỗi bát bột, cháo hoặc cơm của trẻ cần có một muỗng canh dầu hoặc mỡ.
Nấu đặc: Vì nếu nấu loãng, nhiều nước thì năng lượng sẽ thấp. Nhưng trẻ sẽ khó ăn do đó ta dùng men amylase (có trong bột mộng bắp) hoặc neopeptin theo chỉ định của bác sĩ nhỏ vào chén bột đặc sẽ làm bột lỏng ra và trẻ sẽ dễ ăn hơn.
Tăng bữa ăn: Ngày ăn 5-6 bữa thay vì chỉ ăn 3 bữa. Cho trẻ ăn thêm bữa tối trước khi ngủ. Nên ăn thêm bữa phụ ví dụ như sau khi ăn bữa chính nếu trẻ ít hơn nửa chén thì cho trẻ uống nửa ly sữa, nửa cốc sữa chua, nửa quả chuối..., vì làm như vậy trẻ đỡ chán ăn.
Tại sao lại một nửa mà không phải là một? Vì chỉ cần cho trẻ ăn thêm vừa sức của trẻ, không nên ép ăn hết khi trẻ đã chán. Vì làm thế, trẻ sẽ nôn thức ăn ra và sẽ rất "sợ ăn" dẫn tới biếng ăn sau này. Đặc biệt trẻ suy dinh dưỡng nên cho ăn thêm một bữa tối trước khi đi ngủ.
Tăng cường chất dinh dưỡng: Thức ăn nên đủ chất dinh dưỡng nhưng trẻ phải ăn cả xác thực phẩm. Do đó, khi chế biến phải chú ý băm nhỏ, nấu mềm và nêm phù hợp với khẩu vị của trẻ. Trẻ thường ăn nhạt và không thích có nhiều mùi gia vị. Những thực phẩm thích hợp với trẻ nhỏ là trứng, thịt băm, cá băm, rau cũng nên xắt nhỏ.
Lưu ý, không nên cho trẻ uống nước trái cây trước khi ăn hoặc coi nước trái cây là một bữa phụ vì nước trái cây rất ít năng lượng, ít chất xơ, chỉ có vitamin tan trong trong nước và có đường nên sẽ làm trẻ "ngang dạ" không muốn ăn bữa chính.
Ngoài ra khi trẻ đã bị suy dinh dưỡng thì trẻ cần bổ sung một số vi chất dinh dưỡng (vitamin và muối khoáng), nên trẻ cần được các bác sĩ chuyên khoa dinh dưỡng khám và theo dõi sức khỏe để cho thuốc thích hợp.
Bạn có thể dùng
xi rô Zamel, với hương vị cam để bổ sung vitamin và khoáng chất cho trẻ, bạn có thể tham khảo tại đây :
http://thuocbietduoc.com.vn/sanpham/zamel/