Acyclovir là chất tương tự nucleosid, có tác dụng chọn lọc trên tế bào nhiễm herpes virút.
Do ngại độc tính của thuốc, sợ không an toàn với thai mà nhiều người bệnh không dùng sớm, thiếu kiên nhẫn với thuốc đặc hiệu acyclovir nên kết quả không cao, làm cho các bệnh nhiễm herpes, đặc biệt là Herpes sinh dục nữ, dễ tái phát lây nhiễm trong cộng đồng.
Tính đặc hiệu của acyclovir
Acyclovir là chất tương tự nucleosid, có tác dụng chọn lọc trên tế bào nhiễm herpes virút. Khi vào cơ thể, acyclovir chuyển thành dạng monophosphat - acyclovir nhờ một enzyme của virút, sau đó chuyển thành dạng triphosphat - acyclovir nhờ các enzyme khác của tế bào. Chất này ức chế tổng hợp DNA của virút, ngăn cản sự sinh sản (nhân lên) của virút mà không ảnh hưởng gì đến tế bào bình thường.
Herpes simples virút (HSV)
Acyclovir tác dụng với herpes simples virút (HSV) trong đó mạnh nhất với HSV1, kém hơn với HSV2, với virút gây bệnh zona (VZV=Viracella zoster virus) với cytomegalovirus (CMV), có tác dụng đặc biệt tốt trong viêm não do HSV1 (làm giảm tử vong từ 70% xuống 20%, giảm các biến chứng nghiêm trọng trên người được chữa khỏi) cũng tác dụng tốt trên thể viêm màng não nhẹ hơn do HSV2.
Những chú ý khi dùng
Do tính đặc điểm dược động học của acyclovir, khi dùng cần tuân theo một số nguyên tắc chung sau:
Phải dùng sớm ngay khi có triệu chứng, dùng liều cao vì thuốc phân bổ rộng trong các dịch (dịch âm đạo, dịch não tủy, thủy dịch, tinh dịch, nước mắt…) trong các tổ chức (não, thận, phổi, ruột, gan, lách, cơ, tử cung, niêm mạc…) nên sinh khả dụng chỉ 20%.
Phải dùng nhiều lần trong ngày (uống 3 - 4 lần ngày hoặc truyền tĩnh mạch liên tục) vì chu kỳ bán thải ngắn (người lớn 3 giờ, trẻ em 2 - 3 giờ, trẻ sơ sinh 4 giờ).
Phải dùng kéo dài theo liệu trình vì thuốc chỉ làm ổn định mà không chữa khỏi hẳn bệnh (cần dùng lặp lại khi bệnh tái phát hay dùng dự phòng ở liều thấp hơn hàng ngày, một vài trường hợp hầu như phải dùng suốt đời theo định kỳ).
Theo đó tùy theo bệnh, tình trạng bệnh mà chọn dạng thuốc, cách dùng, liều dùng thích hợp:
Dạng uống: dùng cho các trường hợp bệnh bình thường, không nặng. Trong bệnh mụn rộp môi do HSV1: dùng ngay từ đầu, liều trung bình, một lần 400mg x 2 - 3 lần/ ngày trong 5 ngày, nếu có nhiễm kèm HIV thì phải kéo dài thời gian dùng tối thiểu là 10 ngày. Trong bệnh thủy đậu, zona: dùng liều rất cao, mỗi lần 800mg x 5 lần/ngày, trong 5 - 7 ngày. Trong nhiễm herpes sinh dục: đợt lâm sàng nhiễm herpes sinh dục đầu tiên dùng một lần 400mg x 3 lần/ngày trong 7 - 10 ngày, sau đó hoặc dùng trong từng đợt tái phát với liều cao hoặc dùng hàng ngày với liều thấp hơn để “khống chế tái phát”. Dùng theo kiểu “khống chế tái phát” sẽ hạn chế được tần suất tái phát đến 70% cải thiện được chất lượng cuộc sống hơn là dùng từng đợt.
Vết thương do Herpes simples virút gây ra
Dạng tiêm tĩnh mạch: dùng cho các trường hợp bệnh nặng như trong nhiễm HSV lan tỏa ở những người suy giảm miễn dịch, suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS), ghép tạng, bị bệnh máu ác tính hoặc trong nhiễm HSV tiên phát ở miệng hay sinh dục, trong nhiễm HSV ở trẻ sơ sinh, trong viêm giác mạc nặng do HSV. Thí dụ: trong zona nặng phải dùng sớm trong vòng 48 giờ đầu tiên khi có triệu chứng, liều một lần 5mg/kg, cứ mỗi 8 giờ dùng nhắc lại một lần trong 5 - 7 ngày; nếu người suy giảm miễn dịch phải dùng liều tăng gấp đôi.
Dạng thuốc dùng tại chỗ: cũng dùng ngay khi có triệu chứng, dùng nhiều lần trong ngày, kết hợp với dùng toàn thân (uống). Bôi lên chổ tổn thương 5 - 6 lần/ngày.
Tính an toàn của thuốc
Dạng uống: dùng ngắn hay dài hạn (trên 1 năm) đều có thể gặp buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng, ban da, nhức đầu nhưng nhẹ; dùng nhiều năm (6 năm) vẫn không gặp tai biến cấp hay mạn nào nghiêm trọng.
Herpes simples virút và vết thương do nó gây ra
Dạng truyền tĩnh mạch: thường gặp viêm tĩnh mạch ở vị trí tiêm truyền. Thuốc thải trừ qua thận; có thể gây kết tủa trong ống thận nếu nồng độ cao dẫn đến suy thận cấp do đó liều dùng phải căn cứ theo hệ số thanh thải creatidin, truyền chậm (với thời gian trên 1 giờ), tránh truyền nhanh, truyền ngay một lượng lớn, khi dùng thuốc phải uống đủ nước. Ít gặp hơn là các phản ứng thần kinh - tâm thần (ngủ lịm, run, nhầm lẫn, ảo giác, cơn động kinh). Làm tăng nhất thời ure, creatinin máu, enzyme gan. Nếu dùng chung với các thuốc gây độc cho thận thì sẽ tăng nguy cơ suy thận.
Tính an toàn với thai
Số liệu từ danh bạ đăng ký thai (1984 - 1998, do Glaxo Wellcome thực hiện): có 1.234 trường hợp mang thai phơi nhiễm acyclovir, trong đó khảo sát 756 trường hợp bà mẹ bị phơi nhiễm trong 3 tháng đầu thai kỳ, thấy: tỉ lệ trẻ sinh ra bị khuyết tật 3,2% tương đương với tỉ lệ trẻ khuyết tật nền trong dân số. Số liệu trong quần thể chung (1996 - 2008 do Đan Mạch thực hiện): trong số 837.795 trẻ đã khảo sát có 1.804 trẻ sinh ra từ bà mẹ phơi nhiễm acyclovir , famciclovir, valacyclovir trong 3 tháng đầu thai kỳ. Tỉ lệ trẻ dị tật sinh ra trong nhóm các bà không có sự khác biệt so với tỉ lệ dị tật sinh ra từ các bà mẹ không bị phơi nhiễm ba thuốc này, cũng không có sự khác biệt so với tỉ lệ trẻ dị tật nền trong dân số. Với dạng dùng ngoài, cũng thấy: tỉ lệ trẻ dị tật ở trẻ sinh ra từ các bà mẹ mang thai phơi nhiễm các kháng sinh này ba tháng dầu thai kỳ với acyclovir là 2,3% và với valacyclovir là 4,2%, không có sự khác biệt với tỉ lệ trẻ di tật sinh ra từ các bà mẹ không phơi nhiễm các kháng sinh này. Với các bà mẹ phơi nhiễm các kháng sinh này trong các tháng giữa và cuối thai kỳ, tỉ lệ trẻ dị tật sinh ra từ các bà mẹ này cũng không khác với tỉ lệ trẻ dị tật sinh ra từ các bà mẹ không phơi nhiễm các kháng sinh này. Tóm lại, những nghiên cứu mới nhất trên quy mô lớn chứng tỏ acyclovir (và cả famciclovir, valacyclovir) an toàn với thai trong suốt thai kỳ.
DS.CKII. BÙI VĂN UY