Trong Đông y, trái dâu được dùng từ đời Đường, Trung Quốc. Qua các công trình nghiên cứu, dâu ta và dâu tàu có giá trị nuôi tằm và làm thuốc tương đương nhau.
Theo Trung dược học bản thảo: trái dâu tằm có công dụng bổ thận, dưỡng huyết, khu phong, sáng tai, mắt, dài râu tóc, tăng lực, chữa táo bón kinh niên. Trong Bản thảo bị yếu viết: an thần, thính tai, sáng mắt, tiết nhiều nước miếng, trị khát, lợi thủy, tiêu thũng.
Quả dâu ta còn hay gọi là quả dâu tằm (dâu cho lá nuôi tằm kéo tơ) có nhiều trên đất nước ta. Cây dâu nuôi tằm (Morus albaL) nhiều lá mềm, ít quả và quả nhỏ vị chua hơn. Cây dâu lưu niên Morus nigraL nhiều quả, to, đỏ, tím đen mọng ngọt, lá dày cứng tằm không ăn. Mỗi loại có đặc tính quý riêng cho tùy mục đích sử dụng. Quả dâu có tên Hán là tang thầm. Họ dâu tằm Moraceae.
Trong Đông y, trái dâu được dùng từ đời Đường, Trung Quốc. Qua các công trình nghiên cứu, dâu ta và dâu tàu có giá trị nuôi tằm và làm thuốc tương đương nhau.
Theo Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân: trái dâu giải được độc của rượu, lợi cho cả khí huyết.
Một số tài liệu Trung Quốc cho biết cứ 100g quả dâu có 1,6g anbumin, 0,4 chất béo, 9,6g chất đường; 3,3g xơ thực phẩm, 20mg caroten; 30mg canxi, 33mg photpho; 0,3mg sắt, 150mg Kali, 1mg Na, 0,07mg đồng, 1,33mg kẽm, 2,31g Selen; vitamin: A 19g, B1 0,02mg, B2 5mg, B6 7mg, C 22mg, E 12,78mg, Biotin 85g, Folacin 38g, Niacin 0,6mg, acpantotenic 0,43mg. Axít linoleic bảo vệ huyết quản phòng xơ cứng mạch, chất resveratrol phòng chống ung thư, chống oxy hóa mạnh, giảm mỡ máu, chống ngưng tụ tiểu cầu, giãn mạch, kháng khuẩn, tăng miễn dịch chống AIDS. Ăn thường xuyên kéo dài tuổi thọ, đẹp nhan sắc, đen tóc, sáng mắt.
Thu hoạch dâu chín phải nhẹ tay, không để dập nát (gây lên men), không chất đống, thiếu không khí dễ gây giảm chất lượng của các chế phẩm. Chế biến quả dâu bằng rất nhiều cách từ đơn giản đến phức tạp như: nước ép dâu, cao dâu, dâu ủ men, dâu hấp, mứt dâu, bột dâu, dâu tươi xào thịt. Trong các chế phẩm đó có khi chỉ dùng trái dâu, có khi phối hợp thêm nhiều thức ăn hay các vị thuốc Đông y khác để phục vụ nhiều mục đích điều trị khác nhau. Để dùng dâu có thể phơi khô quả dâu và dùng liều khô bằng 1/2 liều tươi.
Bổ can thận, ích tâm huyết, thính tai, sáng mắt, đen râu tóc, lợi xương khớp - rượu tang thậm (Tang thậm tửu). Trong bản thảo cương mục của Lý Thời Trân: quả dâu chín tươi 5.000g. Gạo nếp 6.000g. Men rượu vừa đủ. Quả dâu phải chín đều, ép lấy nước, đun sôi để nguội cho cùng cơm nếp men rượu trộn đều cho vào bình ngâm. Ngày uống mỗi lần 30 - 50ml 2 bữa cơm ngày.
Các tài liệu về Đông y về sau nói nếu cho vào rượu dâu nên thêm mật ong, rượu sẽ ngon bổ hơn.
Dưỡng huyết cao tóc khô bạc (Trung y mỹ dung): quả dâu tươi chín 50g. Đường phèn vừa đủ. Quả dâu rửa sạch cho vào nồi đất, nước vừa đủ sắc lấy nước hòa đường phèn để uống. Có thể uống thường xuyên, nhất là về mùa hè. Cách này thông dụng trong nhân dân. Do không có đường phèn họ đã dùng đường hoa mơ hoặc đường trắng.
Tóc khô gãy, rụng, chóng bạc:
- Quả dâu 100g, rượu 1/2 lít ngâm 3 ngày. Uống ngày 2 bữa cơm. Mỗi lần 20ml.
- Quả dâu, sinh địa, mỗi thứ 30g; đường trắng 15g. Giã nát sắc uống chia 10 lần uống.
Chống lão hóa: nhức mỏi cơ xương khớp đau lưng gối, hoa măt, ù tai, chóng mặt, táo bón, kém ăn, yếu sức, đoản hơi, tóc râu khô bạc, rụng, hay quên, lẫn. Nên sách cổ gọi quả dâu là Quả trường thọ.
- Cháo quả dâu: quả dâu chín 40g, gạo 50g. Đường phèn vừa đủ. Nấu cháo lỏng ăn buổi sáng (chưa ăn gì, bụng đói) rất tốt đối với người già, yếu, ốm dậy.
- Bánh mè quả dâu: quả dâu 30g, vừng đen 60, bột nếp 700g, bột gạo tẻ, hạt đay 10g, đường trắng 30g. Làm bánh hấp chín.
Mất ngủ cấp tính: quả dâu tươi 60g (khô 30g) sắc uống 2 lần/ngày vào chiều tối.
Mất ngủ kinh niên: quả dâu 15g, thục địa 15g, bạch thược 15g sắc uống.
Các chứng bệnh sau sinh (hậu sản do âm huyết kém, ho, sốt): dâu, long nhãn, đảng sâm. Mỗi thứ 30g nghiền nát 3 thứ. Uống mỗi lần 2 - 3g với nước đun sôi để nguội, ngày 3 lần.
Hồi hộp, tim đập nhanh, đau tức ngực: quả dâu 30g, ngân nhĩ 20g, ô mai 3g. Sắc kỹ uống ngày 2 lần.
Ho lâu ngày do phế hư: quả dâu 150g, lá dâu 100g, vừng đen 100g, cô cao lỏng thêm 500g đường. Uống ngày 3 lần. Mỗi lần 15g (1 thìa con).
Phù thũng: một nắm cành dâu băm nhỏ, đổ ngập nước đun còn một nửa bỏ bã - một lượng quả dâu chín bằng lượng cành nấu nhừ lọc bỏ bã cô đặc, đường, ít rượu. Ngày uống 2 thìa canh, hòa nước cơm uống trước bữa ăn.
Chảy nước mắt sống (nước mắt tự nhiên chảy ra): quả dâu 20g, cà chua một quả. đem nghiền nát. Ăn hết một lần. Ngay 1 - 2 lần. Đồng thời lấy lá dâu già chưa rụng nấu lấy nước rửa mắt hàng ngày.
Ăn không tiêu, trướng bụng, óc ách, tức thở: quả dâu 10g, bạch truật 6g, sắc uống.
Hoạt huyết, dưỡng huyết thông kinh, bế kinh do huyết ứ: quả dâu 15g, hồng hoa 3g, kê huyết đằng 13g, rượu trắng 1 thìa con (15ml). Cho tất cả vào nồi nấu lấy nước bỏ bã. Ngày 1 thang, uống trong 5 - 7 ngày.
Ra nhiều mồ hôi mồ hôi trộm: quả dâu, ngũ vị tử, mỗi loại 10g sắc kỹ đến khi còn 1/2 - uống ngày 1 lần.
Viêm đa khớp dạng thấp: quả dâu tươi 100g, rượu trắng (gạo hoặc nếp ngon). Dâu rửa sạch, giã nát gói vào túi vải ngâm vào rượu 3 - 5 ngày. Uống mỗi lần 20 - 25ml.
Viêm khớp nói chung: quả dâu 250g, cành dâu 150g, chùm gửi dâu 100g. Ngâm rượu uống.
Đái tháo đường do can thận âm suy:
- Quả dâu 30g, thiên hoa phấn 20g, sinh địa 15g. Sắc uống.
- Quả dâu tươi 1kg, gạo nếp 0,5kg, men rượu vừa đủ dùng. Giã nát dâu cho nếp vào nấu cùng thành cơm nếp, để nguội rắc men rượu, trộn đều cho lên men thành rượu cái. Ăn khai vị trước bữa cơm.
Viêm gan mãn tính, ung thư (cancer) gan: quả dâu tươi 500g, bột củ ấu 50g, mật ong 30ml. Ép dâu lấy nước cô đặc, trộn bột củ ấu và mật ong nấu chín. Dùng điều trị hỗ trợ ung thư gan bị huyết hư, miệng lưỡi khô, thần kinh suy nhược mất ngủ, táo bón.
Tràng nhạc: trái dâu chín 500g, thục địa 200g (thái nhỏ) cho vào túi vắt lấy nước cô thành cao dùng mỗi lần một thìa với nước đun sôi, để nguội. Ngày 3 lần.
BS. PHÓ THUẦN HƯƠNG