Liệt dây thần kinh VII ngoại vi hay còn gọi là: khẩu nhỡn oa tà hay liệt mặt... là chứng bệnh có nhiều nguyên nhân do tổn thương thực thể tại chỗ hoặc do suy yếu của các tạng phủ kỳ hằng.
Liệt dây thần kinh VII ngoại vi hay còn gọi là: khẩu nhỡn oa tà hay liệt mặt... là chứng bệnh có nhiều nguyên nhân do tổn thương thực thể tại chỗ hoặc do suy yếu của các tạng phủ kỳ hằng. Trong Đông y được quy thành 3 chứng trạng chủ yếu là: phong hàn, phong nhiệt và huyết ứ... Liệt dây thần kinh VII ngoại vi có nhiều phương pháp trị liệu khác nhau. Bài viết sau xin giới thiệu phương pháp tự xoa bóp, bấm huyệt để bạn đọc tham khảo và áp dụng khi cần.
Nguyên nhân gây liệt thần kinh VII thường do cảm nhiễm phong hàn, phong nhiệt hoặc do chấn thương làm bế tắc sự vận hành của kinh mạch gây ra méo miệng, mắt nhắm không kín, nhân trung lệch sang bên lành, cơ bên liệt co cứng hay teo nhẽo, ăn uống rơi vãi...
Huyệt toản trúc.
Các phương pháp xoa bóp bấm huyệt trị bệnh
Phương pháp xoa - miết: Người bệnh ngồi thả lỏng người trên ghế hoặc nằm thoải mái dùng ngón tay trỏ miết từ huyệt toản trúc xuống nghinh hương từ 15 - 20 lần. Sau đó miết từ huyệt toản trúc đến ty trúc không 10 - 20 lần. Tiếp theo miết từ thừa tương qua hạ địa thương qua giảo cơ rồi đến địa thương đến huyệt quyền liêu 20 - 30 lần. Kế tiếp dùng 5 đầu ngón tay và lòng bàn tay thả lỏng day, xoa nhẹ nhàng toàn bộ bên liệt theo chiều kim đồng hồ từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài và ngược lại.
Phương pháp đẩy: Người bệnh ngồi thả lỏng người trên ghế, lấy đường giữa mặt làm ranh giới, tay bên nào thì đặt vào mặt bên đó. Ví dụ nếu người bệnh bị liệt mặt bên trái thì gốc của bàn tay trái để dưới huyệt thừa tương, năm đầu ngón tay phải để vào đường thẳng chia đôi mặt phía trên huyệt ấn đường. Nhẹ nhàng vừa đẩy vừa miết bàn tay trái cho tới khi gốc bàn tay gặp đường giữa trên trán. Song song với động tác trên cũng miết nhẹ bàn tay phải cho tới khi gặp huyệt thừa tương từ 25 - 30 lần.
Ấn huyệt thái dương.
Bấm huyệt:
Bệnh nhân ngồi trước gương dùng ngón tay cái làm trụ, bốn ngón còn lại làm nền lần lượt bấm các huyệt: tình minh, ấn đường, toản trúc, ngư yêu, ty trúc không, đồng tử liêu, nghinh hương, hạ quan, giáp xa, quyền liêu, địa thương, thái dương, phong trì, ế phong, giảo cơ, hạ địa thương, thừa tương mỗi huyệt từ 20 - 25 lần, thủ pháp nhẹ nhàng khoan thai.
Phương pháp vận động: Bệnh nhân ngồi thả lỏng người, hai ngón cái giữ chặt khe góc hàm phía dưới huyệt quyền liêu, những ngón tay còn lại có thể đan vào nhau để dưới hàm hay ôm lên đầu rồi từ từ há miệng ngáp 15 - 20 cái. Phương pháp này mới tập hơi đau cơ hàm nhưng rất tốt cho việc điều chỉnh sự chảy xệ teo nhẽo của cơ mặt. Tiếp theo bệnh nhân khép chặt môi rồi từ từ lấy hơi thổi đầy lên miệng, rồi tự điều chỉnh cho hơi chạy vòng quanh miệng, thỉnh thoảng ép hẳn hơi về bên liệt, làm động tác này trong 10 - 15 phút. Ngoài ra hằng ngày người bệnh tự phát âm ba chữ: O, U, I càng nhiều càng tốt và kết hợp tập ăn uống bằng bên liệt, nhai kẹo cao su bên liệt để kích thích thần kinh cơ.
Chú ý: Để giảm sự đau rát trong khi xoa bóp cần phối hợp với các phụ liệu xoa bóp như dầu, phấn xoa bóp. Cần cắt móng tay, khi thao tác phải dùng sức tập trung vào đầu ngón tay để ấn mạnh vào đó nhưng nhất định không được làm rách da. Có thể đặt một khăn vải mềm mỏng lên nơi vùng huyệt sau đó mới bấm để giảm bớt sự kích thích quá mức, Ngoài ra cần ăn uống đầy đủ dinh dưỡng và nghỉ ngơi hợp lí, tránh gió lạnh, va đập...
Vị trí huyệt cần tác động Tình minh: trên góc khoé mắt trong 0,1 tấc. Ấn đường: chính giữa hai đầu cung lông mày. Toản trúc:chỗ lõm đầu trong chân mày, thẳng trên góc mắt trong. Ngư yêu: chỗ lõm trung tâm lông mày. Ty trúc không: chỗ lõm mé ngoài đuôi lông mày. Ðồng tử liêu: khoé mắt ngoài đo ra 0,5 tấc. Nghinh hương: cạnh cánh mũi 0,5 tấc. Hạ quan: chỗ lõm bờ dưới sau cung gò má, chỗ khi mở miệng ra có lỗ, ngậm miệng thì khép lại. Giáp xa: ở phía trên trước góc xương hàm dưới, chỗ khi dùng sức cắn răng thì cơ nổi lên. Quyền liêu: huyệt ở dưới xương gò má, giao điểm của đường chân cánh mũi kéo ngang ra và bờ ngoài của mắt kéo thẳng xuống, dưới huyệt là bờ trước cơ cắn, nơi bám vào xương gò má. Ðịa thương: từ mép miệng đo ra 0,5 tấc.Thái dương: chỗ lõm giao điểm của đuôi mắt với khoé ngoài mắt. Phong trì:bờ xương chẩm, chỗ lõm sau tai. Ế phong: phía sau dái tai, chỗ lõm giữa góc hàm dưới và gai xương chũm. Thừa tương: ở đáy chỗ lõm, chính giữa và dưới môi dưới, trên đường bổ dọc giữa hàm dưới. |
Lương y Chu Văn Tiến