Những năm gần đây, ngành dược dường như ít bàn luận hơn về các thuốc tim mạch, tăng huyết áp hay đái tháo đường.
Những năm gần đây, ngành dược dường như ít bàn luận hơn về các thuốc tim mạch, tăng huyết áp hay đái tháo đường. Thay vào đó, người ta nhắc nhiều hơn đến “ung thư”. Một khái niệm gắn liền với chết chóc và đang là bóng mây ảm đạm che phủ bầu trời các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình. Vấn đề thuốc điều trị được đặt ra không hề nhẹ cho ngành dược.
Gánh nặng toàn cầu
Tại hội nghị Nghiên cứu Ung thư quốc tế tổ chức bởi Viện Nghiên cứu ung thư Hoa Kỳ gần đây đã có hẳn một chuyên đề riêng về vấn đề: “Gánh nặng toàn cầu của ung thư đang lan rộng, đặc biệt ở các nước có thu nhập thấp hoặc trung bình”. Hội nghị cho rằng: Ung thư ở các nước này đang là vấn đề sức khỏe phổ biến và cần sự tập trung hơn từ y tế công cộng bên cạnh các bệnh truyền nhiễm như sốt rét và HIV. Ung thư không còn là vấn đề của bất kỳ quốc gia nào, bởi lẽ, trong năm 2012, có khoảng 14,1 triệu trường hợp ung thư mới mắc nhưng con số này sẽ tăng lên khoảng 24 triệu ca trong hai thập kỷ tới. Ước tính tới năm 2030, số bệnh nhân tử vong vì ung thư tăng tới 80% so với con số hiện tại và nhiều trong số đó xảy ra ở các nước có thu nhập thấp hoặc trung bình.
Những thách thức này đòi hỏi sự chú trọng khẩn cấp để phát triển mạnh các danh mục thuốc điều trị lâm sàng trong thời gian ngắn, cũng như những chương trình y tế quốc gia mới để thay đổi quỹ đạo của bệnh ung thư.
Mô phỏng biện pháp chụp CT xoắn ốc phát hiện sớm ung thư phổi.
Nỗ lực phát triển thuốc điều trị ung thư
Cuộc chiến chống ung thư sẽ là một cuộc chiến dai dẳng, khốc liệt và ngành dược luôn song hành trong cuộc chiến đó. Tính từ năm 2010 đến nay, đã có hơn 140 hoạt chất mới/dạng bào chế mới/chỉ định mới được FDA chấp thuận đưa vào sử dụng trong điều trị ung thư. Nếu chỉ xét riêng số hoạt chất được phê duyệt mới trong điều trị ung thư thì con số này đã đạt tới 21 trong 2 năm 2015-2016, vượt xa lĩnh vực đái tháo đường, tăng huyết áp và bệnh tim mạch cộng lại. Hiện nay còn có hơn 500 công ty đang tích cực nghiên cứu, theo đuổi các thử nghiệm lâm sàng giai đoạn cuối trên gần 600 phân tử với hứa hẹn điều trị tích cực các bệnh ung thư phổi tế bào nhỏ, vú, tuyến tiền liệt, buồng trứng và kết trực tràng.
Cũng theo thống kê của Viện Y tế tin học IMS, trong 5 năm qua đã có 70 phương pháp điều trị ung thư mới được phát minh hỗ trợ điều trị 20 dạng ung thư khác nhau. Các danh mục thuốc ung thư trong phát triển lâm sàng đã được mở rộng hơn 60% trong 10 năm qua.
Không ngừng phát triển biện pháp phát hiện ung thư sớm
Chụp CT xoắn ốc: Đây là biện pháp mới được thực hiện trong một chương trình được hợp tác giữa Viện Nghiên cứu ung thư Hoa Kỳ và ngành y tế Trung Quốc. Kết quả cho thấy, nguy cơ tử vong do ung thư phổi ở bệnh nhân nghiện thuốc lá nặng giảm tới 20% khi được phát hiện sớm bằng chụp CT xoắn ốc so với chụp Xquang thông thường. Đây sẽ là nền tảng để thiết kế một thử nghiệm sàng lọc lớn ở Trung Quốc cho bệnh ung thư phổi cũng như kết trực tràng.
Áp dụng hình ảnh phân tử (một xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh) vào điều trị ung thư một cách hiệu quả cũng góp phần chẩn đoán sớm ung thư ngay cả khi chưa có bất kỳ thay đổi nào trong chức năng cơ thể hoặc giải phẫu. Dựa trên nguyên lý sử dụng các marker sinh học (chất đánh dấu sinh học) riêng biệt đối với từng bệnh và quét thấy chúng trên scan còn giúp bác sĩ theo dõi được tiến triển của điều trị.
Liệu pháp nhắm vào mục tiêu phân tử: Đây là một phương pháp điều trị mới sử dụng các thuốc được bào chế ở cấp độ phân tử tế bào để tấn công đặc biệt và giết chết chỉ các tế bào ung thư của từng loại ung thư cụ thể mà không ảnh hưởng đến các tế bào thường. Sản phẩm dẫn đầu trong xu hướng này là STI571 của Glivec dùng để điều trị một thể tương đối hiếm trong ung thư máu: Bệnh bạch cầu tủy xương mạn tính (chronic myeloid leukemia - CML) với khoảng 7.000 người Mỹ được chẩn đoán dương tính mỗi năm.
Ngoài ra, còn rất nhiều phương pháp điều trị mới, các phương thức tiếp cận mới đang được nghiên cứu và phát triển. Kèm theo đó là nhiều phân tử, dược chất được phát minh phục vụ cho cuộc chiến chống ung thư. Kết quả cho những nỗ lực không ngừng nghỉ này là tỷ lệ sống sót của bệnh nhân ung thư đang tăng theo cấp số nhân. Từ 8,4 triệu năm 1996 tăng lên khoảng 15,5 triệu hiện nay và dự đoán con số 26,1 triệu bệnh nhân sống sót sau ung thư vào năm 2040. Dự kiến, trong thời gian không xa, nhân loại có thể kiểm soát dứt điểm căn bệnh chết chóc này.
Nỗ lực trong tìm ra biện pháp dự phòng ung thư
Một trong những nỗ lực đáng kể cải thiện gánh nặng ung thư toàn cầu đó là việc gia tăng sử dụng các loại vắc-xin phòng chống ung thư. Đi đầu trong những nỗ lực này là việc tăng cường độ phủ của vắc-xin HPV trong các nước có thu nhập thấp và trung bình, đặc biệt là những nước có tỷ lệ ung thư cổ tử cung cao. Hơn thế nữa, các chuyên gia cũng đang nghiên cứu để phát hiện ra liều tối ưu cho loại vắc-xin này: Từ 3 liều xuống 2 liều và có thể là 1 liều trong tương lai. Tiếp sau HPV, chúng ta sẽ chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của một số loại vắc-xin khác điển hình là vắc-xin chống virut Epstein-Barr (EBV) và virut viêm gan b (HBV). EBV chịu trách nhiệm cho khoảng 200.000 trường hợp tử vong do u lympho, ung thư dạ dày và vòm họng mỗi năm trên toàn thế giới, phần lớn trong số đó ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. HBV là nguyên nhân gây ung thư gan, bệnh gặp nhiều ở các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
DS. Nguyễn Hải Đăng
((Theo cancer, 4/2017))