THÔNG TIN VỀ THÀNH PHẦN: ATRACURIUM
Tên khác:
Thành phần:
Atracurium besylate
Tác dụng:
Sự kết thúc tác động ức chế thần kinh cơ của Atracurium besylate không phụ thuộc vào sự chuyển hóa hay đào thải ở gan hay thận. Do đó, thời gian tác động hầu như không bị ảnh hưởng khi chức năng của thận, gan hay hệ tuần hoàn bị suy giảm.
Các thí nghiệm với huyết tương của những bệnh nhân có nồng độ pseudocholinesterase thấp cho thấy rằng quá trình ức hoạt của Atracurium besylate vẫn xúc tiến không bị ảnh hưởng.
Atracurium besylate không có tác dụng trực tiếp trên nhãn áp và do đó thích hợp cho việc sử dụng trong phẫu thuật nhãn khoa.
Sự thay đổi pH máu và thân nhiệt của bệnh nhân trong giới hạn sinh lý không ảnh hưởng đáng kể thời gian tác động của Atracurium besylate.
Tính đột biến: Atracurium được khảo sát trong ba thí nghiệm về tính đột biến thực hiện trong thời gian ngắn. Hoạt chất không gây đột biến trong thí nghiệm in vitro ở Ames salmonella với nồng độ tối đa đến 1000 mcg/đĩa hoặc thử nghiệm in vivo ở tủy xương chuột cống với liều đến mức có thể gây ức chế thần kinh cơ. Trong thí nghiệm thứ hai in vitro là thử nghiệm u lympho ở chuột nhắt, không quan sát được tính đột biến với liều đến 60mcg/ml-với nồng độ này có thể diệt đến 50% tế bào được xử lý, tuy nhiên hợp chất cũng gây đột biến vừa phải ở nồng độ 80mcg/ml khi không có tác nhân chuyển hóa và gây đột biến yếu ở nồng độ rất cao (1200mcg/ml) khi thêm vào các men chuyển hóa. Ở cả hai nồng độ này, trên 80% tế bào bị tiêu diệt.
Ðứng về mặt bản chất sự tiếp xúc của atracurium ở người, có thể không cần quan tâm đến nguy cơ gây đột biến cho bệnh nhân chịu giãn cơ trong phẫu thuật bằng Atracurium besylate.
Tính gây ung thư: Các nghiên cứu về tính chất gây ung thư chưa được thực hiện.
Tính sinh quái thai: Các nghiên cứu trên thú vật đã chứng minh rằng Atracurium besylate không gây tác dụng đáng kể trên sự phát triển của phôi.
Khả năng sinh sản: Các nghiên cứu về ảnh hưởng lên khả năng sinh sản chưa được thực hiện.
Chỉ định:
Atracurium besylate là một tác nhân ức chế thần kinh cơ cạnh tranh không khử cực có tính chọn lọc cao được sử dụng như một thuốc hỗ trợ gây mê tổng quát để thực hiện việc đặt nội khí quản và làm giãn cơ vân trong quá trình phẫu thuật hay thở máy.
Quá liều:
Triệu chứng: Liệt cơ kéo dài và các hậu quả của nó là dấu hiệu chủ yếu của việc quá liều.
Ðiều trị: Cần duy trì đường thở cùng với giúp thở áp lực dương cho đến khi có thể tự thở được. Cần thiết cho an thần hoàn toàn do tri giác không bị ảnh hưởng. Có thể làm hồi phục nhanh hơn khi dùng các thuốc kháng cholinesterase sau đó dùng thêm atropine hay glycopyrrolate, khi có dấu hiệu hồi phục.
Chống chỉ định:
Không nên dùng Atracurium besylate cho bệnh nhân đã biết có quá mẫn dị ứng với thuốc.
Tác dụng phụ:
Các tác dụng ngoại ý khi sử dụng Atracurium besylate được báo cáo gồm có đỏ bừng mặt, hạ huyết áp nhẹ thoáng qua hay co thắt phế quản được quy cho sự phóng thích histamine. Rất hiếm khi có phản ứng dạng phản vệ được báo cáo trên bệnh nhân dùng Atracurium besylate kết hợp với một hay nhiều thuốc gây mê.
Thận trọng:
Giống như các tác nhân ức chế thần kinh cơ khác, Atracurium besylate gây liệt cơ hô hấp cũng như các cơ vân khác nhưng không có ảnh hưởng lên tri giác. Chỉ nên dùng Atracurium besylate trong gây mê toàn bộ khi có sự giám sát chặt chẽ của một chuyên viên gây mê cùng với đầy đủ phương tiện dùng cho việc đặt ống nội khí quản và máy giúp thở.
Giống như những thuốc ức chế thần kinh cơ khác, có khả năng phóng thích histamine ở những bệnh nhân nhạy cảm trong quá trình sử dụng Atracurium besylate. Nên cẩn thận khi dùng Atracurium besylate cho bệnh nhân có tiền sử cho thấy có quá mẫn gia tăng với tác dụng của histamine.
Atracurium besylate không có tác dụng ức chế hạch hay thần kinh phế vị khi dùng liều lượng theo khuyến cáo. Do đó, Atracurium besylate không có tác dụng có ý nghĩa lâm sàng trên nhịp tim khi dùng liều khuyến cáo và không có tác dụng chống tim chậm gây ra do nhiều tác nhân gây mê hay do kích thích thần kinh phế vị trong quá trình phẫu thuật. Giống như những tác nhân ức chế thần kinh cơ không khử cực khác, gia tăng nhạy cảm với atracurium có thể gặp ở những bệnh nhân bị nhược cơ, những bệnh về thần kinh cơ khác và rối loạn điện giải trầm trọng.
Nên tiêm chậm Atracurium besylate trong khoảng thời gian là 60 giây cho bệnh nhân có thể nhạy cảm bất thường với hạ huyết áp động mạch, ví dụ ở những người bị giảm thể tích máu.
Các nghiên cứu trên chứng sốt cao ác tính ở thú vật nhạy cảm (lợn) và các nghiên cứu lâm sàng ở những bệnh nhân nhạy cảm với sốt cao ác tính cho thấy rằng Atracurium besylate không làm bùng phát triệu chứng này.
Giống như những tác nhân ức chế thần kinh cơ không khử cực khác, sự đề kháng có thể xảy ra ở những bệnh nhân bị phỏng. Những bệnh nhân này có thể cần tăng liều tùy vào thời gian tính từ lúc bị bỏng và mức độ lan rộng của vết bỏng.
LÚC CÓ THAI VÀ LÚC NUÔI CON BÚ
Giống như những tác nhân ức chế thần kinh cơ khác, chỉ nên dùng Atracurium besylate khi lợi ích cho người mẹ cao hơn bất kỳ nguy cơ nào có thể xảy ra cho thai nhi.
Atracurium besylate thích hợp để duy trì sự giãn cơ trong quá trình phẫu thuật cesar do thuốc không đi qua nhau thai với lượng có ý nghĩa trên lâm sàng khi dùng liều khuyến cáo.
Không biết được Atracurium besylate có tiết qua sữa hay không.
Tương tác thuốc:
Sự ức chế thần kinh cơ tạo ra do Atracurium besylate có thể gia tăng khi dùng đồng thời với thuốc gây mê bay hơi, như halothane, isoflurane và enflurane.
Giống như tất cả các thuốc ức chế thần kinh cơ không khử cực, độ sâu và/hoặc thời gian ức chế thần kinh cơ có thể tăng do tương tác với các thuốc sau:
Các kháng sinh, trong đó có aminoglycoside, polymyxine, spectinomycine, tetracycline, lincomycine và clindamycine.
Các thuốc chống loạn nhịp: Propranolol, các thuốc ức chế kênh calcium, lignocaine, procainamide và quinidine.
Các thuốc lợi tiểu: Furosemide và có thể là mannitol, thiazide và acetazolamide.
Magnesium sulfate.
Ketamine.
Muối lithium.
Các thuốc ức chế hạch: Trimetaphan, hexamethonium.
Ðôi khi, một vài loại thuốc có thể làm nặng thêm hay làm lộ ra chứng nhược cơ năng tiềm ẩn hay thực sự gây ra hội chứng nhược cơ; gia tăng nhạy cảm với Atracurium besylate có thể là hậu quả của các thay đổi trên. Các thuốc này bao gồm nhiều loại kháng sinh khác nhau, các thuốc ức chế beta (propranolol, oxprenolol), các thuốc chống loạn nhịp (procainamide, quinidine), các thuốc viêm khớp (chloroquine, D-penicillamine), trimetaphan, chlorpromazine, steroide, phenytoine và lithium.
Thời điểm khởi phát của ức chế thần kinh cơ không khử cực có thể kéo dài và thời gian tác dụng ngắn đi ở những bệnh nhân đang điều trị thuốc chống co giật mãn tính.
Sự kết hợp các thuốc ức chế thần kinh cơ không khử cực và Atracurium besylate có thể gây ức chế thần kinh cơ quá mức mong đợi so với khi dùng một liều Atracurium besylate tương đương. Tác dụng hiệp đồng có thể thay đổi khi kết hợp các thuốc khác nhau.
Không nên dùng một thuốc làm giãn cơ khử cực, như suxamethonium chloride để làm kéo dài tác dụng ức chế thần kinh cơ của một thuốc không khử cực như atracurium do có thể xảy ra sự ức chế phức tạp và kéo dài khó hóa giải với các thuốc kháng cholinesterase.
Dược lực:
Atracurium besylate bị bất hoạt bởi sự đào thải Hofmann, một quá trình không enzyme xảy ra ở pH và nhiệt độ sinh lý, và bởi sự thủy phân ester do các men esterase không đặc hiệu.
Dược động học:
Cách dùng:
Dùng tiêm ở người lớn: Atracurium besylate được sử dụng theo đường tiêm truyền tĩnh mạch.
Khoảng liều dùng cho người lớn: 0,3-0,6mg/kg (tùy theo thời gian ức chế toàn bộ cần thiết) và sẽ gây giãn cơ trong 15-35 phút.
Ðặt nội khí quản thường có thể tiến hành 90 giây sau khi tiêm tĩnh mạch 0,5-0,6mg/kg.
Khi cần thiết, sự ức chế hoàn toàn có thể duy trì khi bổ sung liều 0,1-0,2mg/kg. Dùng các liều duy trì liên tiếp không làm tích tụ tác động ức chế thần kinh cơ.
Hồi phục tự phát vào cuối giai đoạn ức chế xảy ra khoảng 35 phút tính theo sự phục hồi co cơ đến 95% chức năng thần kinh cơ bình thường.
Sự ức chế thần kinh cơ do Atracurium besylate có thể được nhanh chóng hóa giải với liều chuẩn các thuốc kháng cholinesterase, như neostigmine và endrophonium, với atropin kèm theo hay sử dụng sẵn trước, mà không gây tái giãn cơ.
Dùng tiêm truyền ở người lớn: Sau khi tiêm nhanh khởi đầu một lượng 0,3-0,6mg/kg/giờ, Atracurium besylate có thể dùng duy trì sự ức chế thần kinh cơ trong quá trình phẫu thuật kéo dài bằng cách tiêm truyền liên tục với tốc độ 0,3-0,6mg/kg/giờ.
Atracurium besylate có thể dùng tiêm truyền trong phẫu thuật bắc cầu tim phổi với tốc độ tiêm truyền được khuyến cáo. Sự hạ thấp thân nhiệt đến nhiệt độ 25-26 độ C làm giảm tốc độ bất hoạt của atracurium, do đó sự ức chế thần kinh cơ toàn phần có thể được duy trì với tốc độ vào khoảng một nửa tốc độ tiêm truyền ban đầu khi hạ thân nhiệt
Khi pha loãng với những dịch truyền này để được một dung dịch atracurium besylate có nồng độ 0,5 mg/ml hay cao hơn, dung dịch thu được bền vững dưới ánh sáng ban ngày trong khoảng thời gian nói trên ở nhiệt độ cho đến 30 độ C.
Sử dụng cho trẻ em: Liều lượng ở trẻ em trên 1 tháng tuổi cũng giống như liều cho người lớn tính theo trong lượng cơ thể.
Sử dụng cho người già: Atracurium besylate có thể sử dụng ở liều chuẩn cho bệnh nhân cao tuổi. Tuy nhiên nên dùng liều khởi đầu thấp nhất trong khoảng liều sử dụng và tiêm thật chậm.
Sử dụng cho bệnh nhân suy thận và/hoặc suy gan: Atracurium besylate có thể được sử dụng ở liều chuẩn ở tất cả các mức độ suy thận hoặc suy gan, kể cả ở giai đoạn cuối.
Sử dụng cho bệnh nhân tim mạch: Ở bệnh nhân mắc bệnh tim mạch nặng trên lâm sàng, nên tiêm liều Atracurium besylate khởi đầu trong 60 giây.
Theo dõi: Thường cũng giống như các tác nhân ức chế thần kinh cơ, nên theo dõi chức năng thần kinh cơ trong suốt quá trình sử dụng Atracurium besylate để chỉnh liều riêng cho từng người.
Thận trọng trong sử dụng: Atracurium besylate bị ức hoạt ở môi trường pH cao và do đó không nên trộn trong cùng một ống tiêm với thiopentone hay bất kỳ các chất kiềm hóa. Khi chọn tiêm qua tĩnh mạch nhỏ, nên đẩy Atracurium besylate vào sâu trong tĩnh mạch bằng cách bơm thêm nước muối sinh lý. Khi các thuốc gây mê khác được dùng qua một kim luồn hay canule cùng với Atracurium besylate, mỗi loại thuốc nên được bơm sâu vào tĩnh mạch với một lượng nước muối sinh lý.
Mô tả:
Bảo quản:
Bảo quản ở nhiệt độ trong khoảng 2-8 độ C. Tránh ánh sáng. Không làm đông lạnh thuốc.
Có thể để thuốc trong một thời gian ngắn ở nhiệt độ cho đến 30 độ C nhưng chỉ trong trường hợp vận chuyển hay bảo quản tạm thời trong phòng lạnh.